My Blog

My WordPress Blog

VỀ ĐAN THƯỢNG

Ai về Đan Thượng, Hạ Hòa

Bao người con ở nơi xa nhớ thầm,

Đan Hà, Hậu Bổng, Động Lâm

Âu Cơ, Chí Thiện… vẫn chung dặm đường

Ga tàu kỷ niệm thân thương

Bến đò bãi chợ còn vương nụ cười

Bên sông hoa gạo đỏ tươi

Cây đa, giếng nước một thời ấu thơ.

Có người con của họ Hà

Bao năm phiêu bạt nơi xa trở về

Chiêm bái mộ Cổ ven đê

Viếng thăm chùa Chén nhớ về tổ tông…

Đất đai làng xóm ruộng đồng

Bao nhiêu công sức cha ông đắp bồi

Bao nhiêu máu đổ xương rơi

Cho ta hạnh phúc cuộc đời hôm nay

Mùa xuân con én lượn bay

Quê hương hò hẹn bấy nay ngày về.

ĐỀN NGHÈ

Đền Thượng còn gọi đền Nghè (1)

Chốn thiêng Đan Thượng, Đan Hà thờ chung:

Tướng quân từ thuở vua Hùng

Vì dân vì nước Ngài cùng Tản Viên

Chống Thục Phán giúp Duệ Vương

Ngài là Nguyên soái Cao Sơn Thượng thần.

Những người công đức với dân

Ở đâu cũng được tri ân phụng thờ.

(1): Có thể Nghè có trước, sau nâng cấp thành đền Thượng (Di tích đã xếp hạng), thờCao sơn Nguyên soái Đại vương và phối thờ Phất lang Thất vị Đại thần, Cầm cường Đại thần. Gò Nghè cao nhất, đẹp nhất với cây Đa cổ thụ nhất Đan Thượng

CHÙA CHÉN

Chùa Chén làng Đan còn sự tích

Họ Hà mộ Tổ vĩnh truyền lưu

Đan Thượng xưa có Cổ Lai

Cùng với Chùa Chén là hai ngôi chùa (1)

Cổ Lai nay thuộc Đan Hà

Được xây dựng lại gọi là Hà Linh

Chùa Chén còn ở quê mình

Là nơi hội tụ tâm linh bao đời

Lộ thiên phóng khoáng giữa trời

Năm ban thờ? Giữa đỉnh đồi ven sông!

Như câu đố của cha ông

Như khát vọng của tổ tông một thời.

Nguy nga cũng đổ nát rồi

Khiêm nhường còn trụ giữa đồi trơ trơ

Hàng năm mồng 8 tháng 4

Hội chùa niệm Phật, tiễn đưa Thuyền Rồng.

Tựa cửa thiền mới thành công?

Phải chăng thông điệp cha ông chúng mình.

(1): Cổ Lai tự là chùa chung của Đan Thượng và Đan Hà bị hủy hoại, nay thuộc Đan Hà mới được xây cất lại với tên Hà Linh Tự. Trước đây khi làm lễ hội Chùa Chén phải làm lễ trước ở Cổ Lai có nghi thức tắm tượng. Chùa Chén tọa lạc trên một gò cao, đẹp và là một Di tích lịch sử văn hóa tín ngưỡng độc đáo của Đan Thượng. Chùa để lễ Phật nhưng nơi đây còn để tưởng niệm cụ Hà Viết Đạo với cộng sự có công với dân làng.

MIẾU THẤT VỊ

Thất vị là những vị nào

Phải là đức cả công cao nghĩa dày?

Miếu xưa dấu tích còn đây

Ngôi cao Đền Thượng đến nay vẫn thờ.

(1): Miếu Thất vị ở xóm Sấu, chếch phía trước ga Đoan Thượng, thờ Phất lang Đại Thần, không rõ sự tích, tên tuổi và cũng phối thờ ở Đền Thượng. Miếu đã hoang tàn nhưng còn dấu tích ở đỉnh gò với nhiều đá kê cột rải rác trong vườn nhà ông Đinh Văn Vượng.

VÔ ĐỀ

Quên sao tiếng hú còi tàu

Đến ga Đoan Thượng (1), tiếng đầu máy reo

Xa quê dù có bao nhiêu

Vẫn thương vẫn nhớ vẫn yêu tiếng tàu…

Đã lâu có dịp đi tàu

Đậm đà truyền thống sắc màu quê hương.

(1): Vùng đất này xưa thuộc Đan Hà, sau cắt về Đan Thượng. Khi đặt tên Ga người ta đã đặt chệch thành Đoan Thượng (?)

VỀ VỚI EM

“Sông Thao nước đục người đen”

Ai về Đan Thượng với em thì về.

Xinh xinh làng nhỏ ven đê

Có chùa Chén có đền Nghè linh thiêng.

Chợ quê tuần họp ba phiên

Có ga xe lửa nối liền ngược xuôi.

Bãi sông khi lở khi bồi

Con đò năm tháng đưa người qua sông.

Lúa thì con gái xanh đồng

Hương cau thơm ngát một vùng Trung du.

Trời xuân én nhạn bay đưa

Hoa gạo nở đỏ như xưa mùa hè.

Đan Thượng tươi thắm miền quê

Gần thương xa nhớ có về với em.

Kiệm cần, nhân hậu thảo thơm

Ai về Đan Thượng với em thì về ./.

MÀU THỜI GIAN

Gặp lại bà con quê nhà

“Phi nội tắc ngoại” đều là anh em

Dẫu không còn ở Làng Đan

Tình quê đâu kể hèn sang giàu nghèo.

Nào là các cháu thương yêu

Đây anh đây chị vai xiêu da mồi.

Chú bác thành cụ cả rồi

Cô dì lụ khụ đứng ngồi lom khom.

Giật mình mới đó “còn xoan”

Mà nay mình cũng “đã toan về già”

Bạn trường lên ngạch lão bà

Dáng duyên thiên phú ấy là ngày xưa.

Đường xuân như lây phây mưa

Ô đi mà chẳng thấy che mấy người

Chỉ nghe tiếng khúc khích cười

Ngày xưa, thuở ấy một thời đã qua.

ĐÂU RỒI

Về quê là trở về nguồn

Vui bao nhiêu đấy lại buồn vẩn vơ.

Lũy tre, cây mít ngày xưa

Vườn chè, nương cọ, nắng trưa ve sầu

Triền đê bãi mía hàng cau

Ven sông hoa gạo đẹp màu quê hương.

Đâu rồi cái giếng thân thương

Dộc Xuôi, Mỏ Lấm vấn vương rừng Trà.

Đâu rồi Đình Vật cây đa

Con đò đợi khách nhà ga vắng người.

Đâu rồi xóm chợ đông vui

Lò rèn, lò gốm một thời xa xa.

Đâu rồi cam “quýt Đan Hà”

Trám, chay, măng, nhót, dâu da, mận, hồng

Táo, dứa, bưởi, ổi, cải ngồng

Cà giòn, cần cạn, cá đồng, gạo thơm.

Đâu rồi dưa sắn, nấm rơm

Tiếng trâu gõ mõ, cọ om, khoai bùi.

Đâu rồi…

Đâu rồi…

Đâu rồi…

Sông Thao bên lở, bên bồi về đâu.

Quá khứ không vị không màu

Không tên không tuổi nặng sâu đáy lòng .

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành các bài viết này có sự giúp đỡ tích cực, phối hợp nhiệt tình và có những thông tin quý báu của các quý cụ, ông bà: Hà Duy Hàn, Hà Ngọc Oanh, Hà Duy Cáp, Hà Kim Chuông, Hà Văn Lân, Lê Văn Long, Hà Đức Hoan, Hà Văn Quảng, Hà Duy Lý, Nguyễn Văn Đường, Nguyễn Tiếp Tâm, Nguyễn Thế Việt, Phan Vũ Thuyết, Nguyễn Thị Nin, Hà Xuân Khoát, Nguyễn Thị Thanh, Hà Quang Long, Hà Á Đông, Ma Quang Nghiêm….Đặc biệt là cụ Nguyễn Văn Liên, Hà Khắc Khoan (Hà Nội) giúp tìm hiểu về Hán Nôm.

Xin trân trọng cám ơn./.

Bài và ảnh của tác giả

Rất mong được quan tâm và trao đổi theo địa chỉ:

Hà Văn Tăng (Điện thoại NR: 043.9763484; DĐ: 0913.221.580)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *